Tên di sản : Đình, chùa Lương Trung
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : số 417/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình - Chùa Lương Trung toạ lạc trên khuôn đất cao nhất, đẹp nhất giữa làng, nhìn về hướng Tây. Các cụ già trong làng thường kể rằng những trận lụt do mưa trời, bão biển, xóm làng trong vùng bị chìm trong biển nước nhưng đình nước biển vẫn không đến được.
Tấm ảnh do người Pháp chụp năm 1918 cho chúng ta thấy những cấu trúc cơ bản của đình Lương Trung: Cổng đình là 2 cột nanh và bức bình phong vuông chấn thuỷ trước sân, toà đại đình gồm 5 gian. Theo các cụ cao tuổi tại địa phương cho biết phía sau đình là 3 gian Hậu cung nơi thờ Thành hoàng làng, bên cạnh là nhà thờ các tổ họ. Phía bên trái có 1 cổng phụ nhỏ được lợp ngói, đi thắng vào phía trong là ngôi chùa thờ Phật, dân địa phương gọi là Chùa Lương Trung, có tên chữ là "Thanh am tự". Đình - Chùa Lương Trung bị tháo dỡ năm 1965 khi cuộc ném bom miền Bắc của máy bay Mỹ vào lúc ác liệt nhất.
Nằm ở vị trí đầu làng, được xem như là không gian chuyển tiếp giữa môi trường ngư nghiệp vừa sản xuất đồng ruộng với môi trường cư trú xóm làng, đồng thời cũng ăn nhập vào dòng chảy của gió trời và biển nước, quy tụ sinh khí đất trời. Đình - Chùa Lương Trung vốn là nơi hội tụ giao lưu văn hoá - xã hội bởi những công trình kiến trúc tôn giáo hoàn chỉnh trước đây tuy mới được phục dựng nhưng đình vẫn được coi là bộ mặt văn hoá của làng, có toà đại đình Hậu cung, điện thờ Mẫu, chùa thờ Phật cùng với hệ thống cây trồng được chọn lọc.
Theo các nguồn tư liệu như: Tấm bia đá "Phúc Đình Bi ký" hoặc tấm ảnh Sam Son Dinh de Lương Trung chụp năm 1918, qua một số dấu vết còn lại như đoạn tường bao xây bằng lớp gạch đỏ có độ mỏng 3cm được nung đất bằng rơm, củi, lối sử dụng vật liệu thường thấy ở thế kỷ XVIII - XIX để xây dựng các công trình tôn giáo, kiến trúc thì có thể Đình - Chùa Lương Trung đã có từ rất sớm.
Kết cấu kiến trúc:
Toàn bộ khối kiến trúc đình và chùa Lương Trung nằm liền kề nhau, nhìn về hướng Tây được bố trí trên một diện tích rộng 1873,5m2. Phía trước là sân và khoảng không gian rộng, sự thông thoáng và cùng với gió tr���i làm cho cảnh quan dễ gợi nét xưa của 1 ngôi làng cổ ven biển.
Đình - Chùa Lương Trung có cảnh sắc thiên nhiên được khai thác, uốn nắn và bổ sung, bởi vị trí phía Nam là xóm làng đồng ruộng, xa hơn dãy Trường Lệ xanh thẳm như nối chân trời với góc biển, phía Tây con sông Đơ đổ nước về cửa cống Vinh Sơn, phía đông là không gian rộng lớn của biển trời, nó nâng quy mô giá trị kiến trúc với môi trường sinh thái, tạo nên cảnh quan có đủ vẻ đẹp, vừa thu nạp thẩm mỹ, vừa là chỗ dựa tâm linh cho mọi người, nó gắn kết với khối cư dân làng xã ở đây.
Tam quan đồng thời cũng là cổng đình được xây uy nghi, bề thế với cấu trúc 3 vòm cửa, được xây bằng gạch với khẩu độ khác nhau, nhưng cao thoáng cùng với các đường mái cong thanh thoát. Cổng được thiết kế theo lối 3 gian với 2 tầng 8 mái, tầng trên cùng là góc trống, các bậc cầu thiết kế từ 2 vòm cửa bên đi lên.
Một khoảng sân rộng được lát gạch bát đỏ có thể chứa đựng được vài trăm người trong các kỳ lễ hội. Do hoàn cảnh lịch sử, một góc sân cũ nay còn một số hộ dân đang ở, nên sân đình không còn vuông vắn như trước đây, hiện trung bình mỗi cạnh 25m..., tiếp đến là hai khối kiến trúc đình và chùa.
Đình: Toà đình với 5 gian dài 11,65m, rộng 7,4m gồm 14 cột, 6 vì bít đốc. Ba gian hậu cung rộng 4,8m dài 5,6m được kiến trúc bằng tường xây trên cơ sở một bộ khung hình hộp.
Tổng số cột của đình có 14 cột được bố trí ở bái đường, các cột có chiều cao đến dạ quá giang là 2,7m, đều được tỳ lên mặt chân tảng. Chân tảng làm bằng đá được đẽo vuông và được chạm tròn với điểm tiếp giáp vừa bằng đường kính chân cột. Kích thước chia gian được lấy ở đầu cột, đầu cột là nơi khớp các xà, kẻ theo 3 chiều không gian.
Thích ứng với điều kiện khí hậu của đồng bằng ven biển, đình Lương Trung có một lối kiến trúc bền vững. Một bộ khung với các vì kèo để lộ ra phía trước một hàng hiên, thông qua 2 chuông cửa, mỗi chuồng 2 cánh, cao 2,7m được đóng mở bởi một khung ngạch gỗ có then, 2 bẩy có cột đỡ của 2 vì giữa đỡ tàu mái trước tạo ra một không gian hiên rộng 1,2m. Mặt trước 2 gian hồi được xây bịt không có hiên để tăng thêm diện tích trong nội thất định. Kẻ bẩy khớp vào đầu cột con tăng cường cho phần chắc chắn ở điểm nối giữa quá giang và đầu cột con. Xà đại ở đầu cột con liên kết chặt chẽ 2 vì kèo của một gian. Các điểm nối các cột con với nhau làm chức năng giằng néo liên kết như các xà, hoàn chỉnh một bộ khung hình hộp.
Toà đại đình có 6 vì,2 vì giả đầu hồi, 2 vì cuối có 4 cột với tường bất độc. Các vì vừa có chức năng chịu lực, vừa chia gian. Nếu tính từ trái sang vì 1 cách vì 2: 1,8m; vì 2 cách vì 3: 2,5m; vì 3 cách vì 4: 3,4m; vì 4 cách vì 5: 2,5m và vì 5 cách vì 6: 1,8m. Hai gian hồi là hẹp nhất (1,8m) nhưng được xây thêm chái hồi chiếm dụng một phần của hiên, gian giữa của vì 3 và vì 4 rộng nhất (3,4m) lại có cột hiên đắp rồng đỡ kèo tàu mái. Các vì ở đây kết cấu theo lối kẻ suốt giá chiêng, kẻ bẩy hiên. Các câu đầu, bát đấu đều được đắp gờ chỉ... Hai "bẩy" hiên đắp hình các dây cách điệu. Toàn bộ kết cấu phần vì để chống đỡ phần mái, đảm bảo một sự liên kết vững chắc trước những cơn bão, lụt lội. Lợp ngói mũi phủ trên mái vừa đè xuống sườn nhà cùng với hệ thống bờ dải, bở nóc tạo thành một khối bền vững. Về hình thức phần mái thông qua kết cấu hệ thống tường bao, nằm độc lập nhưng được liên kết chung với phần mái ở sự gắn kết phần ở xà, vì...Đỉnh nóc trang trí lưỡng long chầu mặt nguyệt.
Hậu cung thiết kế kiểu chồng diêm, 2 tầng mái theo lối "tiền đầu dao, hậu bít đốc" có nghĩa là 2 mái trước được lượn cong đầu đao, tàu mái đầu được bức tường hậu cây thắng lên bít đốc.
Ở 2 đầu cột con của 2 vì kèo giữa được liên kết với 2 vì kèo hậu cung bằng hệ thống xà thượng, xà hạ. Hai vì Hậu cung có 2 cột tạo ra lối đi trong Hậu cung, hệ thống chịu lực là đầu quá giang tỳ lên tường.
Phần giao nối giữa tàu mái ở Hậu cung và bái đường được xử lý hoàn chỉnh, bằng gờ chỉ đắp công phu, kỹ thuật khi các khoảng chảy của tàu mái trái ngược nhau.
Đồ thờ tại đình đã làm thiêng hoá trong cấu trúc thờ tự là những sản phẩm văn hoá vật thể chứa đựng ước vọng truyền đời của con người, qua nó như qua thần linh để cầu phúc, phản ánh tâm thức của người dân biển. Nơi thiêng nhất là Hậu cung - nơi thần ngự, là long khám son son thiếp vàng được chạm thủng hình kỷ hà quanh mặt trước, bên trong là cỗ ngai có bài vị ghi dòng chữ về tước vị thần được trong sắc phong “Dực bảo Trung hưng linh phù tôn thần”. Trên ban thờ có nhiều vật dụng tế tự như chân nến, hộp quả, lư đồng, khay gỗ, bát hương...Phía trên là bức đại tự lớn khắc "Vạn cổ danh khối" (Tạm dịch: Muôn đời danh thơm)
Dưới bức đại tự là đôi câu đối treo ở cột:
Đình tiến huy hoàng địa linh nhân kiệt thiên cổ tích
Thần công hạo đãng dân an vật phụ vạn gia tồn.
Tạm dịch:
Trước đình rực sáng đất địa linh sinh hào kiệt muôn thuở còn ghi dấu tích.
Bậc thần công lực rộng mở giúp dân yên ổn, muôn vật tốt tươi, vạn nhà vững chãi.
Tiếp đến là ban thờ trên có đặt tượng Thành hoàng làng ngồi trên long ngai, pho tượng là vị quan văn khuôn mặt nghiêm nghị, đội mũ cánh chuồn, trang phục rực rỡ trong buổi thiết triều. Tượng bằng gỗ được nghệ nhân tạo hình với kiểu dáng chuẩn mực, phù hợp với nội dung sử dụng của hiện vật, vị trí của nó cũng hoà quyện với cái chung tổng thể của mặt bằng kiến trúc.
Hai bên t��ợng là đôi câu đối treo trên 2 cột:
Địa linh Lương Trung thiên cổ tại
Hương hoả từ trung thượng đẳng thần.
Tạm dịch:
Lương Trung đất địa linh muôn thuở ở chốn này
Trong định hương khói thờ Thượng đẳng thần.
Đây là dạng phù điêu kết hợp chặt chẽ giữa những dòng chữ Hán với những mô típ chạm khắc hoa văn hình kỷ hà. Những dòng chữ trên đại từ, câu đối đó thông tin cho chúng ta về thái độ biết ơn, kính cầu đối với vị Thành hoàng. Điều đáng nói ở đây là sự hài hoà giữa nét và chữ, giữa chữ với những mô típ trang trí xung quanh giữa màu của chữ và màu của nền. Chính sự hài hoà đó tạo cho phù điêu có giá trị nghệ thuật, loại nghệ thuật biểu đạt bằng chữ.
Tại phần cổ diêm ở gian giữa có đắp nổi bức đại tự “Thanh am tự”, trên đỉnh nóc Tiền đường được trang trí bằng các bức xiên hoa, chính giữa đỉnh nóc đắp bánh Luân xa trang trí. Phần hiên trước Tiền đường ở các bậc lên xuống là những hàng đá bó hè, những phiến đá to ở hiên là những vật liệu cổ còn lại của lần khởi dựng và tu tạo trước đây.
Kiến trúc Tiền đường chỉ là lối kiến trúc mới được tu bổ, chỉ có điều đáng chú ý là 3 chuông cửa gỗ được làm theo mẫu của chùa cũ. Chuông cửa giữa có 6 cánh, hai chuồng bên đều 4 cánh. Chính gian giữa Tiền đường treo bức đại tự gỗ lớn khổ 1,6m x 0,8m, được sơn son thếp vàng với 3 chữ Hán: “Thanh am tự”, được chạm khắc cầu kỳ tinh xảo là hiện vật mới được cung tiến gần đây. Hai câu đối sơn son thếp vàng được treo ở hai hàng cột, khắc lại nội dung của câu đối xưa còn lưu truyền:
Phụng phật pháp hư không biến hóa cửu thiên huyền viễn
Tự nhân tâm thành kính uy thông tam bảo từ bi.
Tạm dịch:
Thờ phật pháp cõi hư không biến hóa chín cung trời huyền diệu xa xăm
Từ tâm nhân thành kính nổi uy linh thông tuệ, tòa tam bảo tỏa ánh sáng từ bi.
Bức đại tự được treo ngay gian chính giữa trước cửa hậu cung với 4 chữ Hán “Từ Quang Phổ Chiếu” (Tỏa chiếu rộng khắp ánh sáng từ bi).
Đầu năm 2012 sau gần 20 năm sử dụng Hậu cung của chùa vì kèo luồng bị gẫy mái bị sụp đổ, bởi vậy, hệ thống tượng thờ được chuyển dịch lên nhà Tiền đường bảo vệ và thờ cúng, địa phương sẽ lập dự án xin phép tu bổ Hậu cung trong thời gian tới.
Hiện tại, từ bệ thờ cao nhất của nhà Tiền đường là hệ thống tượng Phật được sắp xếp:
Lớp 1 đặt 3 pho tượng Tam thế.
Lớp 2 là tượng A Di Đà Tam tôn đứng bên trái là tượng Quan Thế Âm bên phải là tượng Đại Thế Chí.
Lớp thứ 3 là tượng Thích Ca mâu ni ở giữa đứng cạnh hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ.
Lớp thứ 4 là pho tượng Cử Long.
Lớp thứ 5 là tượng Ngọc hoàng. Hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu.
Tượng A Di Đà Tam Tôn là pho tượng lớn nhất ở Tam Bảo, tượng Thích Ca Mâu Ni hay còn gọi là tượng Quan Âm dạng thiên thủ thiên nhãn ở đây được thể hiện là tượng Quan Âm chuẩn đề với 10 đôi tay. Ngoài ra, chùa còn có các tượng như Giám Trai, Quan Âm Thị Kính, tượng Hộ Pháp...được đặt ở những vị trí phù hợp trong chùa. Các pho tượng ở chùa Lương Trung mặc dù không phải là những pho tượng cổ nhưng đều là những pho tượng đẹp được các nghệ nhân tạo tác khá công phu mang đầy đủ yếu tố, phong cách nhà Phật, dung nạp được nhiều nghệ thuật đối với những tác phẩm tôn tạo này.
Chùa Lương Trung là di tích lịch sử văn hóa đã được Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nghiên cứu khảo sát ra quyết định số 138/ QĐ - VHTT. Ngày 12 tháng 4 năm 1999, đăng ký và phát huy tác dụng di tích.